Các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu ôtô, xe máy sẽ phải cam kết tỷ lệ tái chế sản phẩm thải bỏ, đóng tiền vào Quỹ Bảo vệ môi trường.
Theo dự thảo Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp (DN) sản xuất và nhập khẩu ôtô, xe máy phải cam kết tỷ lệ tái chế sản phẩm thải bỏ, đóng tiền vào Quỹ Bảo vệ môi trường… Dự kiến Nghị định được ban hành và có hiệu lực từ năm 2022.
Xác định tỷ lệ tái chế sản phẩm thải bỏ thế nào?
Bộ Tài nguyên và Môi trường đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường về trách nhiệm tái chế, xử lý sản phẩm, bao bì thải bỏ của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu.
Một nội dung đáng chú ý trong dự thảo Nghị định là quy định yêu cầu DN cam kết tỷ lệ tái chế đối với các sản phẩm thải bỏ là ôtô, xe máy. Theo đó, các DN ôtô, xe máy phải cam kết và thực hiện việc tái chế đối với sản phẩm thải bỏ theo một mức tỷ lệ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường.
Cụ thể, đối với các loại phương tiện ôtô, xe máy, sau khi thu hồi sản phẩm thải bỏ phải tháo dỡ các bộ phận kim loại, nhựa, thủy tinh, cao su phục vụ tái chế. Bên cạnh đó, thu hồi các chất thải nguy hại (dầu nhớt, dầu bôi trơn, ắc quy, bảng mạch, linh kiện điện tử…) để xử lý chất thải phát sinh.
Về quy định này, đại diện Hiệp hội Các nhà sản xuất ôtô Việt Nam (VAMA) cho rằng, khác với các ngành hàng như bao bì, ôtô – xe máy hay đồ điện tử sẽ có thời gian vòng đời sử dụng rất lâu.
Bên cạnh đó, ví như ôtô, xét về điều kiện thực tế tại Việt Nam, nhiều khi xe hỏng hoặc thậm chí hết niên hạn nhưng người dân có thể sẽ không mang đi thải bỏ mà tái sử dụng một phần hoặc toàn bộ trước khi thải bỏ.
Chẳng hạn như ôtô buýt “hết đát” có thể được tận dụng làm tiệm “cà phê xe buýt”, lốp xe cũ có thể đắp lại hoặc làm tường chắn ở những đoạn cua hay xảy ra tai nạn chứ không đem tái chế ngay… Điều này đòi hỏi cần có thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra một con số cụ thể về yêu cầu cam kết tỷ lệ tái chế ôtô, xe máy.
“Các DN tô, xe máy luôn muốn đồng hành cùng Chính phủ xây dựng các quy định tái chế phù hợp nhằm giảm thiểu tác hại đến môi trường, bảo tồn tài nguyên. Tuy nhiên cần có các nghiên cứu và thảo luận với hiệp hội ngành hàng để xác định các vướng mắc, qua đó tính toán tỷ lệ tái chế phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, cũng như lộ trình áp dụng khả thi”, một thành viên của VAMA chia sẻ.
Một số thành viên Hiệp hội Các nhà sản xuất xe máy Việt Nam (VAMM) cũng cho rằng tỷ lệ tái chế của từng ngành hàng sẽ phải khác nhau bởi hệ số thải bỏ của xe máy không thể giống với bao bì. Vậy khi cơ quan có thẩm quyền quyết định tỷ lệ tái chế của từng ngành hàng thì có gộp chung với các ngành khác hay không?
Cần công khai, minh bạch sử dụng Quỹ bảo vệ môi trường
Tại dự thảo Nghị định cũng quy định mức đóng góp tài chính của các DN vào Quỹ Bảo vệ môi trường dựa trên tỷ lệ mặt hàng phải tái chế bắt buộc/số lượng sản phẩm đưa ra thị trường. Theo đó, hình thức được đề xuất là đóng một khoản phí được tính toán trước theo mỗi ngành hàng dựa trên lượng tái chế chưa đạt mức tối thiểu theo quy định.
Việc quản lý Quỹ này sẽ do Hội đồng EPR Quốc gia (Hội đồng trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất). Thành viên Hội đồng sẽ bao gồm: Giám đốc Văn phòng EPR Quốc gia và đại diện các bộ có liên quan cùng DN đại diện hiệp hội DN sản xuất, nhập khẩu, tái chế…
Liên quan đến tính minh bạch khi sử dụng, phân bổ Quỹ Bảo vệ môi trường trong việc hỗ trợ tái chế sản phẩm thải bỏ, dự thảo nghị định đã có quy định rõ về việc công bố số tiền thu được và việc sử dụng. Văn phòng EPR (chỉ có lãnh đạo là người nhà nước) là hệ thống của DN, do DN điều hành, chịu sự giám sát của Hội đồng EPR – chính là đại diện của các DN.
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam sẽ phải đảm bảo hiệu quả trong việc sử dụng tiền của DN cũng như đảm bảo công khai minh bạch. Hiện nay Quỹ đã có 10.000 tỷ đồng do ngân sách Nhà nước cấp. Việc sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo yêu cầu bảo toàn vốn. Việc chi tiêu tiền của Nhà nước phải đúng quy định, còn chi tiêu tiền của DN góp vào sẽ phải chịu sự kiểm toán.
Một số ý kiến của các DN ôtô, xe máy cũng cho rằng, hiện còn quá nhiều việc ở phía trước trong khi thời gian dự kiến ban hành còn quá ngắn (dự kiến ban hành và có hiệu lực từ tháng 1/2022) để đưa ra được giải pháp.
Như vậy, thời hạn mà Bộ TN&MT đưa ra để có được tỷ lệ tái chế của ngành sẽ rất khó thực hiện nên cần có lộ trình cũng như hướng dẫn thực hiện các giải pháp sau khi nghị định có hiệu lực.
Theo dự kiến, VAMM và VAMA đã có kế hoạch dự án nghiên cứu tái chế, với mục tiêu đạt được 100% đồng thuận về công thức tính tỷ lệ tái chế bắt buộc và công thức đóng phí, tỷ lệ tái chế và mức đóng phí, phương pháp tái chế. Có thể tháng 11 hoặc tháng 12 năm nay sẽ báo cáo kết quả nghiên cứu và kiến nghị lên Bộ Tài nguyên và Môi trường.